Việt Nam chiến tranh với Trung Quốc điều gì xảy ra?
Thứ Tư, 14 tháng 5, 2014
Hiện tại tình hình biển đông giữa Việt Nam và TRung quốc khá căng thẳng có thể
Việt Nam chiến tranh với Trung quốc, NHưng nếu Việt Nam chiến tranh với trung quốc thì không có nghĩa là Trung quốc có thể thắng Việt nam. Và điều gì sẽ xảy ra nếu Việt Nam chiến tranh với Trung Quốc:
Lợi thế của Việt Nam chiến tranh với Trung Quốc
1. Rào cản chính trị:
- Tại khu vực Biển Đông, hiện nay có ba nước tồn tại bất đồng lớn nhất với Trung Quốc về lãnh hải và hải đảo là Việt Nam, Philippines và Malaysia, trong đó Việt Nam là hàng đầu. Vì thế, khả năng bùng nổ xung đột quân sự tại khu vực biển Đông chỉ có thể là Trung Quốc tấn công quân sự chiếm các đảo, bãi mà Việt Nam đang kiểm soát tại quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa). Còn khả năng Trung Quốc và Malaysia nổ ra xung đột quân sự do tranh chấp đảo Layan Layan (đá Hoa Lau) trong tương lai gần, cơ bản bằng không. Thế nhưng, vấn đề quan trọng là Trung Quốc áp dụng hành động quân sự quy mô lớn với Việt Nam, thế tất sẽ thiêu huỷ hoàn toàn hình tượng quốc tế “Hoà bình phát triển” mà Trung Quốc tạo dựng trong gần 20 năm qua. Hệ quả là sự cảnh giác của Ôxtrâylia, Mỹ, Nhật Bản và cả Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) đối với Trung Quốc sẽ tăng cao.

- Gần đây, hợp tác và trao đổi quân sự giữa Mỹ với ASEAN và Việt Nam đã có những bước tiến lớn, một khi Trung Quốc áp dụng hành động quân sự, dư luận và báo chí chính thức của Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và các nước phương Tây khác sẽ đứng về phía Việt Nam. Mỹ, Ấn Độ và Nhật Bản thậm chí còn cung cấp cho Việt Nam chi viện về tình báo và hậu cần quân sự cho Việt Nam . Bên cạnh đó, “Học thuyết quân sự mới” của Ôxtrâylia cho rằng biển Đông chính là “biên cương lợi ích” của Ôxtrâylia sẽ có cớ phát triển.
- Một khi
Việt Nam chiến tranh với Trung Quốc bùng nổ, sẽ thúc đẩy nhanh hơn sự thành lập chính thức của tập đoàn “NATO biển Đông”, bước đi Nam tiến của Lực lượng Tự vệ trên biển của Nhật Bản cũng sẽ trở thành hiện thực và tạo ra căn cứ hợp pháp để Mỹ can thiệp quân sự trực tiếp. Hơn thế, tại khu vực này, tồn tại “Hiệp ước đồng minh Mỹ – Singapore – Ôxtrâylia” và từ sau năm 1995, Mỹ cùng với 6 nước ASEAN là Philippines, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Indonesia và Bruney tổ chức cuộc diễn tập quân sự hàng năm mang tên “Karat”, được mệnh danh là “Tập đoàn Karat” và trên thực tế đã trở thành quan hệ “chuẩn đồng minh”.
- Quần đảo Trường Sa hiện nay, có một số đảo nằm sát bờ biển Malaysia, có một số đảo gần đường trung tuyến Việt Nam – Malaysia, cách Trung Quốc xa như vậy, nói là của Trung Quốc thật khó có sức thuyết phục. Do vậy, khi Trung Quốc áp dụng hành động quân sự, hình tượng quốc tế của các nước hữu quan, nhất là Việt Nam sẽ tốt hơn nhiều so với Trung Quốc, theo đó các nước lớn châu Âu, thậm chí cả Mỹ và Ấn Độ sẽ cùng đưa ra đề nghị cung cấp vũ khí cho Việt Nam, khiến cho nhân tố thiên thời và nhân hòa là bất lợi đối với Trung Quốc.
2. Rào cản về quân sự
- Các nhà quan sát quân sự Bắc Kinh nêu rõ nhìn bề ngoài, so sánh sức mạnh quân sự giữa Trung Quốc với Việt Nam,Khi Việt Nam chiến tranh với Trung quốc thì phía Trung Quốc có vũ khí hiện đại mang tính áp đảo, nhất là ưu thế về số lượng và chất lượng tàu mặt nước, tàu ngầm cỡ lớn. Thế nhưng, phân tích sâu về học thuyết địa – quân sự, thực sự bùng nổ chiến tranh trên không và trên biển với Việt Nam , ưu thế sức mạnh quân sự không hẳn nghiêng về Trung Quốc. Bởi vì đặc điểm mới của chiến tranh kỹ thuật công nghệ cao với vũ khí tên lửa là không có khái niệm so sánh sức mạnh của nước mạnh, nước yếu. Theo đó, nước yếu có một số ít tên lửa hiện đại, trong chiến tranh trên biển và trên không, vẫn có thể dựa vào ưu thế thiên thời, địa lợi, nhân hòa.v.v.
- So sánh cụ thể hơn, về hải quân và không quân của Trung Quốc tham gia cuộc chiến tranh Việt Nam chiến Trang với Trung Quốc này sẽ chủ yếu là Hạm đội Nam Hải (Bộ Tư lệnh đặt tại Trạm Giang, Quảng Châu). Còn Việt Nam lực lượng không quân được trang máy bay chiến đấu “Su- 30MKV” và “Su- 27SK/UBK”. Hải quân Việt Nam được trang tàu tên lửa tốc độ cao “ Molniya- 12418 ” và tới đây có cả tàu ngầm “KILO- 636”. Như vậy, xu thế so sánh sức mạnh tại biển Đông đang phát triển theo hướng bất lợi cho Trung Quốc.
- Trong tương lai gần, khi Hải quân Việt Nam đưa tàu ngầm “KILO- 636” vào sử dụng, quyền kiểm soát cục bộ dưới nước có thể sẽ nghiêng về phía Hải quân Việt Nam. Ngoài ra, Trung Quốc phải tính đến nhân tố máy bay chiến đấu “Su- 30MKV” của không quân Việt Nam có thể sẽ được trang bị tên lửa siêu âm không đối hạm “BRAHMOS” (của Ấn Độ) và “YAKHONT” (của Nga) với tầm bắn đạt 300 km.
- Về năng lực phòng không,
Trung Quốc và Việt Nam đều được trang bị tên lửa đất đối không hiện đại “S- 300PMU1”. Lực lượng phòng không của Việt Nam có 2 tiểu đoàn, còn con số này của Trung Quốc là 20. Thế nhưng, lực lượng này (của Trung Quốc) chủ yếu bố trí trên đất liền, do vậy vai trò có thể phát huy trong chiến tranh trên biển và không phận trên biển khá hạn chế.
3. Rào cản về địa lý
- Toàn bộ 29 đảo, bãi mà Việt Nam kiểm soát hiện nay tại Trường Sa, cách đất liền từ 400 – 600 km. Tại khu vực này, Việt Nam có các căn cứ không quân tại vịnh Cam Ranh (Nha Trang), Đà Lạt (Lâm Đồng) và ở Thành phố Hồ Chí Minh, đa số không phận tại khu vực tranh chấp này đều nằm trong tầm tác chiến của máy bay tấn công “Su- 22” của không quân Việt Nam, chưa kể đến máy bay chiến đấu “Su- 30MKV” và “Su- 27SK” với bán kính tác chiến lên đến 1.500 km. Từ đó cho thấy cả Trung Quốc và Việt Nam đều có đủ năng lực tấn công tầm xa đối với các căn cứ hải quân tung thâm của đối phương.
- Việt Nam đã xây dựng sân bay tại đảo Trường Sa. Nếu so sánh, không quân Trung Quốc kể cả cất cánh từ sân bay tại đảo Hải Nam, khoảng cách đường thẳng đối với 29 đảo bãi Việt Nam đang kiểm soát đã lên đến từ 1.200 – 1.300 km, còn cất cánh từ khu vực quần đảo Hoàng Sa, khoảng cách đến Trường Sa cũng lên đến từ 900 – 1.000 km… Điều này buộc máy bay chiến đấu “J- 10” và “J- 8D” và cả “Su- 30MKK” và “Su- 27SK” của Không quân Trung Quốc đều cần được tiếp dầu trên không mới có thể tham chiến. Tuy vậy, thời gian tác chiến trên vùng trời biển Đông so với máy bay chiến đấu cùng loại của không quân Việt Nam cũng ngắn hơn khoảng 50%.
- Khi chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc bùng nổ, sân bay trên đảo Vĩnh Hưng (Hoàng Sa) và thậm chí cả sân bay trên đảo Hải Nam của không quân Trung Quốc nhiều khả năng trước tiên sẽ bị máy bay chiến đấu “Su- 22” của không quân Việt Nam thực hiện tấn công phủ đầu. Căn cứ Toại Khê, Căn cứ Quế Lâm (Quảng Tây) của Sư đoàn không quân số 2 cũng nằm trong phạm vi bán kính tác chiến tấn công của máy bay chiến đấu “Su- 30MKV” của Không quân Việt Nam . Ngoài ra, còn một yếu tố quan trọng khác là xung đột không chỉ hạn chế ở khu vực biển Đông, toàn bộ các mục tiêu chiến lược tại đảo Hải Nam, Hồng Kông, Côn Minh (Vân Nam) và Nam Ninh (Quảng Tây) đều nằm trong phạm vi bán kính tác chiến của máy bay chiến đấu “Su- 30MKV” của Không quân Việt Nam.
- Địa hình lãnh thổ của Việt Nam dài hẹp, máy bay “Su- 27SK” và “J- 10A” của Trung Quốc, sau khi tham chiến, trên đường bay trở về căn cứ tại đảo Hải Nam hay căn cứ Toại Khê, Quế Lâm (Quảng Tây), đều nằm trong tầm tác chiến của máy bay chiến đấu “MiG- 21Bis” của Không quân Việt Nam cất cánh từ các căn cứ không quân miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Do vậy, MiG- 21Bis của Việt Nam có thể cất cánh đánh chặn máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã hết vũ khí và thiếu nhiên liệu vào bất cứ lúc nào.
4. Rào cản về chiến thuật khi chiến tranh
- Máy bay chiến đấu “Su- 22” của không quân Việt Nam có thể sẽ áp dụng chiến thuật không kích siêu thấp và có được sự yểm hộ hoả lực trong tấn công đảo, bãi. Vì thế, ngay cả khi Trung Quốc chiếm lĩnh được các đảo bãi Việt Nam đang kiểm soát hiện nay, bảo vệ lâu dài là vấn đề cực kỳ khó khăn. Ngoài ra, Không quân Việt Nam áp dụng chiến thuật không kích tầm siêu thấp, sẽ tránh được sự theo dõi của các loại rada trên tàu mặt nước của Trung Quốc và trực tiếp tấn công các tàu mặt nước cỡ lớn của hải quân Trung Quốc.
- Hải quân Việt Nam không có tàu mặt nước cỡ lớn, cho nên không ngại Trung Quốc áp dụng chiến thuật không kích tầm siêu thấp. Hơn thế, như vậy còn khiến cho tàu ngầm hiện đại của Trung Quốc không thể phát huy sức mạnh, chỉ có thể tấn công tàu vận tải của hải quân Việt Nam
Nhưng phán đoán từ loại tàu đổ bộ từ đất liền tiến ra đảo, bãi quần đảo Trường Sa của Việt Nam hiện nay, đa số là tàu vận tải cỡ nhỏ lớp từ 300 – 500 tấn trở xuống, hơn thế phần nhiều là được đóng bằng gỗ, cho nên điều động tàu ngầm hiện đại để tiêu diệt là không cần thiết.
Một số nước trên thế giới có xu hướng ủng hộ Việt Nam rất cao, Như Mỹ, Nhật bản, Triều Tiên.. Phản đối gay gắt hành động của Trung Quốc đang lấn chiểm vùng Biển VIệt Nam
Trươc đó:
Ngày 13/5, tại Hà Nội, Liên hiệp các Tổ chức hữu nghị Việt Nam tổ chức buổi chia sẻ thông tin về Biển Đông. Tại đây, Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan Anh, Phó trưởng khoa Luật Quốc tế, Học viện Ngoại giao, đã đưa ra 6 căn cứ “vạch mặt” những luận điệu của Trung Quốc khi đặt giàn khoan Hải Dương-981 ở thềm lục địa, thuộc vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Tiến sĩ Lan Anh nêu: Vị trí Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 nằm hoàn toàn trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Giàn khoan Hải Dương-981 đặt cách điểm cơ sở là đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) 119 hải lý, cách đảo Tri Tôn (một đảo gần nhất thuộc quần đảo Hoàng Sa) 17 hải lý. Theo Công ước Luật Biển 1982, tại điều 57 quy định, chiều rộng của vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia ven biển không được quá 200 hải lý.
Đồng thời, tại điều 76 Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển cũng quy định, thềm lục địa của quốc gia ven biển rộng tối thiểu 200 hải lý (kể cả khi thềm lục địa thực tế hẹp hơn 200 hải lý). Nếu thềm lục địa thực tế rộng hơn 200 hải lý thì quốc gia ven biển có thể mở rộng thềm lục địa của mình đến tối đa 350 hải lý hoặc không quá 100 hải lý kể từ đường đẳng sâu 2.500m.
Như vậy, theo 4 cách xác định trên, chiều rộng của thềm lục địa 200 hải lý là cách xác định nhỏ nhất. Nếu chiếu theo ranh giới 200 hải lý đó thì sẽ thấy vị trí Trung Quốc đặt giàn khoan nằm sâu trong thềm lục địa thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Người phát ngôn của Trung Quốc nói rằng đây là vùng biển Tây Sa của Trung Quốc, nhưng thực chất vị trí này không phải thuộc vùng biển Tây Sa của Trung Quốc mà là quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Tây Sa là tên Trung Quốc tự đặt cho đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng pháp lý chứng minh chủ quyền đối với Hoàng Sa từ thế kỷ XII qua các hoạt động chiếm hữu thực sự của các đời vua nhà Nguyễn. Các hoạt động này được thực thi liên tục thông qua những tuyên bố cho đến ngày hôm nay.
Trung Quốc đã chiếm đóng bất hợp pháp quần đảo Hoàng Sa qua việc sử dụng vũ lực vào năm 1974. Năm 1945, Hiến chương Liên Hợp Quốc đã ra đời với mục tiêu duy trì hòa bình, ổn định trên thế giới và trong đó có quy định rằng, dùng hòa bình để giải quyết tranh chấp là một nghĩa vụ bắt buộc đối với các quốc gia thành viên. Các quốc gia thành viên không được sử dụng vũ lực và cấm đe dọa sử dụng vũ lực. Trung Quốc là thành viên của Liên Hợp Quốc. Nhưng hiện tại, hành động của Trung Quốc đã vi phạm trắng trợn Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Trung Quốc nói rằng họ có chủ quyền (phi lý, phi pháp) với quần đảo Hoàng Sa, trong đó có đảo Tri Tôn. Trung Quốc coi đảo Tri Tôn này là một điểm mốc để tính phạm vi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và lý luận rằng giàn khoan Hải Dương-981 đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế này.
Tuy nhiên, theo quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), đảo Tri Tôn thực ra chỉ là một cồn cát nhỏ, không có thềm lục địa riêng và không thể sử dụng để tính vùng đặc quyền kinh tế. Như vậy, luận điệu của Trung Quốc rằng giàn khoan Hải Dương-981 đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của họ là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý theo luật pháp quốc tế.
Trung Quốc vi phạm nguyên tắc cơ bản của Liên Hợp Quốc, vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.
Tại điều 56, 76 Công ước Luật Biển 1982 đều quy định chung về quyền chủ quyền của một quốc gia ven biển với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình. Theo đó, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền với tài nguyên thiên nhiên. Ở đây, Trung Quốc hạ giàn khoan, nhằm thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên thuộc quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đó là Việt Nam.
Quyền tài phán của quốc gia trong vùng biển này đó là quyền cấp phép, cho phép khai thác, lắp đặt các đảo công trình ở trên biển. Giàn khoan Hải Dương-981 là một công trình nổi trên biển mà Trung Quốc đã đưa vào thềm lục địa của Việt Nam nhưng không được sự đồng ý của Việt Nam. Vì vậy, Trung Quốc đã vi phạm quyền tài phán của Việt Nam. Đồng thời, trong Công ước cũng nói rằng mọi hoạt động khoan, thăm dò, hay bất kỳ mục đích gì trên thêm lục địa phải được sự cho phép của quốc gia ven biển. Và Việt Nam chưa cho phép Trung Quốc hoạt động khai thác ở vùng biển của mình. Như vậy, Trung Quốc đã vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.
Trung Quốc vi phạm nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp, vi phạm nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và de dọa sử dụng vũ lực.
Nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế nêu, các quốc gia có nghĩa vụ sử dụng biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, không được sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực. Tuy nhiên, những đoạn video Việt Nam công bố cho thấy, Trung Quốc đã nhiều lần dùng vòi rồng công suất lớn phun vào tàu của Việt Nam, sử dụng tàu hộ vệ tên lửa, sử dụng máy bay tuần tiễu, nguy hiểm hơn, vũ khí, pháo luôn được mở bạt để ở chế độ sẵn sàng.
Hành động đó của Trung Quốc là một hành vi đe dọa, sử dụng vũ lực đối với lực lượng chấp pháp, có thẩm quyền, quyền tài phán trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chính vì vậy, Trung Quốc đã vi phạm hai nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được quy định tại điều 2 của Hiến chương Liên Hợp Quốc, đó là nguyên tắc dùng hòa bình giải quyết tranh chấp và nguyên tắc đe dọa sử dụng vũ lực và dùng vũ lực.
Trung Quốc đã vi phạm quyền tự do hàng hải và đe dọa an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trong khu vực của Việt Nam, các nước trên thế giới.
Ngày 5/5/2014, Cục Hải sự của Trung Quốc ra văn bản 14034 thông báo rằng ngoài việc giàn khoan Hải Dương-981 sẽ đặt ở địa điểm nêu trên, sẽ cấm tàu biển cấm đi vào trong phạm vi 3 hải lý. Nhưng tin từ Cảnh sát biển Việt Nam chuyển về cho hay, tàu Cảnh sát biển Việt Nam chỉ mới tiếp cận đến địa điểm khoảng 7 hải lý (tính từ khu vực đặt giàn khoan) mà tàu của Trung Quốc đã đe dọa, tấn công. Như vậy, hành động này đã xảy ra với tàu Cảnh sát biển Việt Nam thì chắc chắn sẽ lặp lại với bất kỳ tàu nào đi qua ngang khu vực này. Do vậy, hành động của Trung Quốc đã vi phạm quyền tự do hàng hải. Đây là một quyền được Công ước Luật Biển ghi nhận tại điều 58, quyền dành cho tất cả các quốc gia, tất cả các tàu thuyền, phương tiện bay.
Trung Quốc bằng hành động của mình đã vi phạm nghiêm trọng cam kết đến ứng xử trên Biển Đông giữa Trung Quốc và các quốc gia ASEAN, vi phạm thỏa thuận cấp cao giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Trong nội dung tuyên bố về ứng xử các bên ở Biển Đông (DOC), Trung Quốc thể hiện rằng không sử dụng vũ lực và đe dọa vũ lực, thể hiện kiềm chế không leo thang tranh chấp, không chiếm đóng mới, phải giải quyết bất đồng. Nhưng ngược lại với những tuyên bố đó, Trung Quốc lại đưa giàn khoan ra khu vực Biển Đông, làm phức tạp thêm tình hình.
Đặc biệt hơn, trong tuyên bố 6 điểm mà lãnh đạo cấp cao Việt Nam và Trung Quốc đã ký thỏa thuận vào năm 2011 có nêu quan hệ láng giềng giữa hai bên được gói gọn trong 16 chữ vàng và 4 tốt. 16 chữ vàng là: láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai. 4 tốt là: láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt. Nhưng Trung Quốc lại đi ngược với ký kết của lãnh đạo cấp cao. Tất cả những lời nói của Trung Quốc đã bị xóa nhòa chỉ bằng một hành vi đơn phương khiêu khích trên Biển Đông, hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 trên vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam, thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.
Cũng trong sáng 13/5, phóng viên Nguyễn Huy có mặt trên tàu CSB 8003 đang làm nhiệm vụ trên vùng biển chủ quyền Việt Nam tại khu vực giàn khoan của Trung Quốc hạ đặt trái phép, cho biết: Tình hình trên biển sáng nay vẫn hết sức căng thẳng, nhiều tàu Trung Quốc tiếp tục vây ráp, đâm, dùng vòi rồng phun vào tàu Cảnh sát biển Việt Nam.
Tuy nhiên, các tàu chấp pháp Việt Nam vẫn kiên quyết bám trụ, khôn khéo đối phó với những hành động gây hấn của Trung Quốc.
Theo tường thuật của phóng viên Nguyễn Huy, sáng 13/5, tàu CSB 8003 của vùng 1 Cảnh sát biển tiếp tục nhận lệnh cơ động cùng các đội tàu Cảnh sát biển, Kiểm ngư cơ động tiếp cận giàn khoan HD 981 để làm nhiệm vụ tuyên truyền.
Trong ngày 13/5, các tàu cảnh sát biển Việt Nam kiên quyết vào sâu bên trong khu vực Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép để bám trụ và tuyên truyền yêu cầu phía Trung Quốc dừng các hoạt động hạ đặt và rút giàn khoan khỏi vùng biển Việt Nam.
Theo ghi nhận của phóng viên tại hiện trường, tàu Trung Quốc gia tăng các hành động gây hấn, đe dọa, xịt vòi rồng vào các tàu chấp pháp của Việt Nam.
Vào lúc 8h ngày 13/5 tàu Cảnh sát biển Việt Nam 8003 cách giàn khoan hơn 8 hải lý. Lúc này tàu 3411 của Trung Quốc bất ngờ xuất hiện, cắt mũi tàu 8003.
Lúc tàu 8003 cách giàn khoan 6 hải lý, tàu 3411 của Trung Quốc bất ngờ tăng tốc đổi hướng về đuôi tàu 8003 và áp sát tàu ở khoảng 80m.
Chỉ huy tàu CSB Việt Nam 8003 phát loa tuyên truyền yêu cầu Trung Quốc dừng ngay hoạt động trái phép trên vùng biển Việt Nam. Phía Trung Quốc ngang ngược tuyên bố đây là vùng lãnh thổ của Trung Quốc.
Lúc 8h30 tàu CSB Việt Nam 4032 làm nhiệm vụ gần đó bị 2 tàu Trung Quốc mang số hiệu 2028 và 46001 kèm sát uy hiếp. Hai tàu Trung Quốc mở vòi rồng trùm lên tàu CSB 4032 của CSB Việt Nam và tăng tốc áp sát trực diện. Tàu CSB 4032 chủ động, lùi máy phòng tránh nhưng vẫn bị 2 tàu Trung Quốc hung hăng đâm vào gây móp mũi tàu. Rất may không có thương vong xảy ra.
Tàu CSB 8003 tiếp tục cơ động cùng các biên đội tàu bố trí đội hình tiếp cận giàn khoan. Lúc 8h35 tàu 8003 cơ động ra vị trí khác, nhưng tàu 3411 của Trung Quốc kèm ngang và một tàu khác đi song song hung hăng chặn các hướng đi của tàu.
Theo phóng viên Nguyễn Huy, sáng 13/5 tại vị trí giàn khoan vẫn dày đặc tàu Trung Quốc. Cách giàn khoan khoảng 6 hải lý, người ta dễ dàng nhận thấy các tàu quân sự, tàu hộ vệ tên lửa của Trung Quốc đang bảo vệ giàn khoan. Trong cùng là các tàu phục vụ dầu khí, ở giữa là các tàu hải giám hải cảnh, kiểm ngư Trung Quốc và tàu ngư dân. Các tàu chấp pháp Việt Nam hoạt động trong khu vực này, đều gặp phải sự ngăn cản, gây hấn của tàu Trung Quốc.
Trước hành động gây hấn của tàu Trung Quốc, các tàu chấp pháp của Việt Nam vẫn khôn ngoan né tránh và hết sức kiềm chế, cũng như tìm các giải pháp ứng xử hòa bình trên biển.
Các chỉ huy tàu Việt Nam cho biết, anh em chiến sĩ trên tàu vẫn tập trung cao độ sẵn sàng nhận nhiệm vụ với tinh thần quyết tâm cao nhưng không khiêu khích. Tất cả với mục tiêu tuyên truyền Trung Quốc dừng ngay việc hạ đặt giàn khoan trái phép và rút khỏi vùng biển chủ quyền biển Việt Nam.
Hồng Nhung Sưu Tầm
All comments [ 0 ]
Your comments